Monday, November 06, 2006
Thursday, November 02, 2006
Wednesday, December 21, 2005
tiền xưa
Vietnam (Annam) Privately minted cash comments? corrections? | Vietnam (Annam) Cash Coins Annam has a long history of manufacturing cash coins. This page includes some examples of the official mintings of the various rulers. However, note that Southeast Asia has very rich tradition of private and semi-private mintings. The private mintings of coins are so diverse that amongst East Asian cash collectors many coins of unknown provenance are arbitrarily assigned to Annam cash catalogues and lists. Many coins in the "private" mint section of Annam catalogues were likely made in China, Malaysia, Indonesia and other regions. There exists a very handy online reference tool for Vietnam coins at http://art-hanoi.com/toda/online.html. and also a very good page (in French) devoted to Vietnam coins at http://www.transasiart.com/Numismatique/numismatique.htm run by the expert Francois Thierry. |
According to Touyou kosen zuroku (Anasendou 1977) the government minted coins of Annam start around the year 970 with the Dai Binh Hung Bao which is a rare coin. The next in the series is the Thien Phuc Tran Bao minted from 980-1010 and which is relatively common. The last cash coins minted by the main government of Annam was in 1929. There are 59 basic issues of coins over this long period, not counting the many variants. Below are a few examples. Private mintings probably were common until much later, as cash coins circulated until relatively recently in Southeast Asia. |
Thien Bing Hung Bao This coin was minted between 970 and 979. It is the first coin in the official series of Annamese dynastic coins. The Hung character of this coin is very unorthodox. On the reverse side above the hole is the character Dinh 丁 which is the name of the dynasty which lasted briefly from 968-981. 23.5 mm x 1 mm 太平興宝 背上丁 | ||
Thien Phuc Tran Bao This coin was minted between 980 and 1010. The example here is a little beat at the rim but the back character shows nicely. The Le character on the back is the name of the short lived Le Dynasty of 981-1010. 24.1mm x 0.9mm 天福鎮宝 背黎 | ||
Thien Phuc Tran Bao This coin was minted between 980 and 1010. The example here is unfortunately very worn so the characters are difficult to see. 23.5mm x1mm 天福鎮宝 背黎 | ||
Dien Ninh Thong Bao This coin was minted from 1454-1458 by the 4th king of the Le dynasty (1428-1785). Like most 15th and 16th century Le coins, it is generally a beautifully made coin with crisp calligraphy. It is also quite common and easy to get hold of an example. 24.5 mm x 1.2 mm 延寧通宝 | ||
Thien Hung Thong Bao This coin was minted only in1459 and is rather uncommon. As with other coins of this era the coin is crisp and the characters are deep. 24mm x 1.1mm 天興通宝 | ||
Hong Duc Thong Bao This coin was minted1470-1497. It was given to me a good coin collector friend. I am rather sure that it is a mother coin because it is of extremely fine make, the character and rim edges are vertical and deep, and the coin is slightly larger than the rubbing in my source text the Touyou kosen zuroku (Anasendou 1977). It is no larger on the outside than the similar circulating coin below, but measuring across the inside of the rim it is slightly larger. The metal seems to have a high nickel content. 25mmx1.2mm 洪徳通宝 跳ね洪徳 | ||
Hong Duc Thong Bao This coin was minted1470-1497 and is a circulating coin minted from a mother coin such as the one above. 25mmx1.1mm 洪徳通宝 跳ね洪徳 | ||
Canh Thong Thong Bao This coin was minted 1498-1503. It was given to me by a good coin collector friend. It has suffered some damage but it may be a mother coin because it is of extremely fine make, the character and rim edges are vertical and deep, and the coin is slightly larger than the rubbing in my source text. The metal seems to contain more copper than the Hong Duc Thong Bao. However coins of this era in Annam are generally of extraordinarily fine make. 24.5mm x1.1mm 景統通宝 跳ね字 | ||
Thoai KhanhThong Bao This coin was minted from 1505-1509. It is uncommon. This coin is very thick. 25 mm x 1.8 mm 端慶通宝 | ||
Chanh Dai Thong Bao This coin was minted from 1530-1540 and is rather uncommon. This version is the "small character, small hole" variety, and the coin itself is rather small. I like this coin because like many other Annam coins, by chance, it has a name like a Japanese era name. 22 mm x 1.4 mm 大正通宝 小字狭穿 | ||
Nguyen Hoa Thong Bao This coin was minted 1533-1548. I like the quirky style of the characters. I also like this coin because it has the same legend as a Japanese coin from 1617, the rare Genna Tsuuhou. This coin itself is uncommon. 24 mm x 1 mm 元和通宝 異制 | ||
Nguyen Hoa Thong Bao This is another example of the coin above. It has apparently been dug up and is covered in a fine sand. The colors are just like the sandstone back at the home of my youth in West Virginia. 24 mm x 1 mm 元和通宝 異制 | ||
Thai Binh Thong Bao, reverse star This coin was minted from 1737, more or less at the same time as the Canh Hung Thong Bao below. This one has a single star on the back above the hole. 24 mm x 1 mm 太平通宝 背星 | ||
Thai Binh Thong Bao, reverse "ichi so" This coin was minted from 1737, more or less at the same time as the Canh Hung Thong Bao below. This coin has markings on the back which are not exactly like what I can find in the catalogues, but coins are filled with variety in this era in Vietnam. On the back of this coin at the top is the character for "one" and on the bottom an arrow shape not too unlike the recognized variety (in Japanese: hai so) of a left dot over a diagonal line. Maybe this is that type. 23.5 mm x 1 mm 太平通宝 背一ソ (フ?) | ||
Canh Hung Thong Bao, reverse "Kinh" This coin was minted 1740-1776 and has more basic variants than any other Annam royal issue. Many of the variants substitute other words for "circulating cash" "thongbao." These include words which mean "important cash," "large cash," "giant cash," "eternal cash," "true cash," "central cash," "inner cash," "spring of cash," "fat cash," and "the ultimate in cash." It certainly is the ultimate in cash. There are so many that I have put some examples on a separate page for Canh Hung coins. 24 mm x 1 mm 景興通宝 背京 |
| |
Canh Hung Thuan Bao This "orderly cash" looks like one of the Canh Hung variants but is listed as a subsequent coin minted from 1776-1787. 景興順宝 | ||
Chieu Thong Thong Bao This coin was minted in 1787. It has quite a few versions with different characters on the reverse side. 24 mm x 1 mm 昭統通宝 | ||
Chieu Thong Thong Bao, reverse Chanh This coin was minted in 1787. This version has the character Chanh on the reverse side, which refers to the upper provinces of Tunquin. 25 mm x 1 mm 昭統通宝 背正 克統 | ||
Chieu Thong Thong Bao, reverse Trung on top This coin was minted in 1787. This version has the character Trung on the reverse side, which refers to the province of Thanh-hoa. This coin is more uncommon than the one with Trungplaced under the hole. 25 mm x 1 mm 昭統通宝 背上中 | ||
This coin was minted from 1788-1792. It has many different varieties of reverse side markings. This one here is plain which is common, but has a very thick outer rim which is less common. 22.2 mm x 0.8 mm 光中通宝 | ||
Canh Thinh Thong Bao This coin was issued 1793-1800. This variant has four octagons on the reverse. I bought this in a coin fair in Santa Barbara. The coin holder had a notation which says"'Water lily money' given to Buddhist temples, ex. Rev. Harris collection" 23mmx.7mm 景盛通宝 背四堆起 | ||
Than Thai Thong Bao, reverse Tap Van This coin was issued in 1889-1906. This version with "10 wen" written on the back is quite common. 成泰通宝 背十文 | ||
Duy Tan Thong Bao, reverse Tap Van This coin was issued 1907-1915. The name of this coin means "renovation" It is read Ishin in Japanese and may be a reference to copy the success of Japan's Meiji Restoration, the Meiji Ishin. 維新通宝 背十文 |
Saturday, December 17, 2005
Sự hình thành cộng đồng người Thượng
|
An Dương Vương và Triệu Đà
Tuy vậy, góc nhìn ở đây sẽ bị ràng buộc bởi khuôn khổ những giả thuyết tổng thể về cổ sử Việt Nam trong “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam” mà tác giả đã từng giới thiệu trên báo điện tử talawas và hiện lưu trữ tại kho sách vnthuquan.net.
Qua đây, tôi cũng xin thay mặt ông Hàn gửi lời mời trân trọng đến các cây bút chuyên nghiệp hơn góp thêm tiếng nói, hầu đa dạng và phong phú hóa các quan điểm Việt Nam về Nhà Triệu và nước Nam Việt.
1. Những mô tả về nước Nam Việt của hiến sử Việt Nam trước năm 1400
Quyển sử đầu tiên của Việt Nam còn bảo tồn được đến hôm nay là An Nam chí lược của Lê Tắc (viết năm 1335). Ở tập Đệ nhất, Lê Tắc xếp nhà Triệu là khởi triều, nếu không kể một ít nguồn gốc Giao Chỉ - Việt Thường dựa vào tích “Giao Chỉ chi nam hữu Việt Thường quốc” được nhiều sách đời sau dẫn từ Thượng thư Đại truyện. Song có một phần sự kiện liên quan được kê cứu như cổ tích.
Nhà Tần (246 207 trước công nguyên TCN) lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận; đến khi nhà Tần loạn thì Đô uý quận Nam Hải là Triệu Đà nổi binh đánh lấy hết các quận quốc, rồi tự lập làm vua. Khi ấy, Hán Cao Tổ sai Lục Giả qua lập Đà làm Việt Vương. Sau khi Cao Tổ băng, Cao Hậu cấm Nam Việt mua đồ sắt của Trung Quốc, Đà tiếm hiệu xưng đế, rồi phát quân đi đánh Trường Sa. Văn đế lại sai người đưa thư qua trách Đà. Đà có ý sợ, bèn bỏ hiệu đế, nguyện làm tôi và cống hiến phẩm vật.
Năm Kiến Nguyên thứ 3, (vua Võ Đế, 142 TCN) Đà mất, con cháu họ Triệu truyền xuống bốn đời, kể được hơn chín mươi năm.
Võ Đế sai Chung Quân đi sứ qua Nam Việt để dụ vua Việt tên là Hưng vào chầu, Hưng muốn đi, nhưng bị tướng Lữ Gia can ngăn, vua không nghe, Gia làm phản, nổi binh đánh giết vua và cả sứ giả nhà Hán, lập Kiến Đức là anh khác mẹ lên làm vua Nam Việt.
Năm Nguyên Đinh thứ 5 (112 TCN), Vệ uý là Lộ Bác Đức xuất mười vạn quân qua đánh Nam Việt, năm thứ sáu, mới đánh bại người Việt, lấy đất đó chia làm các quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai và Đam Nhỉ, mỗi quận đặt Thái thú để cai trị.
Phần“Cổ tích”
Việt Vương Thành, tục gọi là thành Khả Lũ, có một cái ao cổ, Quốc vương mỗi năm lấy ngọc châu, dùng nước ao ấy rửa thì sắc ngọc tươi đẹp. Giao Châu ngoại vực ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc điền tùy theo Thủy triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc dân, người cai quản dân gọi là Lạc vương, người phó là Lạc tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu.
Vua nước Thục, thường sai con đem ba vạn binh, đi chinh phục các Lạc tướng, nhân đó cử giữ đất Lạc mà tự xưng là An Dương Vương. Triệu Đà cử binh sang đánh. Lúc ấy có một vị thần tên là Cao Thông xuống giúp An Dương Vương, làm ra cái nỏ thần, bắn một phát giết được muôn người.
Triệu Đà biết địch không lại với An Dương Vương, nhân đó trú lại huyện Võ Ninh, khiến Thái tử Thủy làm chước trá hàng để tính kế về sau.
Lúc Cảo Thông đi, nói với vua An Dương Vương rằng: "Hễ giữ được cái nỏ của ta, thì còn nước, không giữ được thì mất nước".
An Dương Vương có con gái tên là Mỵ Châu, thấy Thái tử Thủy lấy làm đẹp lòng, rồi hai người lấy nhau. Mỵ Châu lấy cái nỏ thần cho Thái tử Thủy xem, Thủy xem rồi lấy trộm cái lẩy nỏ mà đổi đi. Về sau Triệu Đà kéo quân tới đánh thì An Dương Vương bại trận, cầm cái sừng tê vẹt được nước vào biển đi trốn, nên Triệu Đà chiếm cả đất của An Dương Vương. Nay ở huyện Bình Địa, dấu tích cung điện và thành trì của An Dương Vương hãy còn.
Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu – 1272)
Năm 1272 Lê Văn Hưu viết xong bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển. Hiện nay sách này đã thất truyền. Theo Trần Trọng Kim, quyển sử ấy chép việc từ Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng.
Đại Việt sử lược (Khuyết danh - năm 1388)
Sách này đầu tiên kể đến Hoàng Đế, một vị vua truyền thuyết của Trung Hoa không thể đưa quyền lực đến được Giao Chỉ xa xôi. Qua đời Trang Vương (696–682 TCN) thì vua Hùng xuất hiện. Phần truyền thuyết về họ Triệu trong An Nam chí lược đã được biên tập bớt hoang đường.
Cuối đời nhà Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi rồi lên thay.
Phán đắp thành ở Việt Thường, lấy hiệu là An Dương Vương rồi không cùng với họ Chu thông hiếu nữa.
Cuối đời nhà Tần, Triệu Đà chiếm cứ Uất Lâm, Nam Hải, Tượng quận rồi xưng vương đóng đô ở Phiên Ngung, đặt quốc hiệu là Việt, tự xưng là Võ Vương.
Lúc bấy giờ An Dương Vương có thần nhân là Cao Lổ chế tạo được cái nỏ liễu bắn một phát ra mười mũi tên, dạy quân lính muôn người.
Võ Hoàng biết vậy bèn sai con là Thủy xin sang làm con tin để thông hiếu.
Sau nhà vua đãi Cao Lỗ hơi bạc bẽo.
Cao Lỗ bỏ đi, con gái vua là Mỵ Châu lại cùng với Thủy tư thông. Thủy phỉnh Mỵ Châu mong được xem cái nỏ thần, nhân đó phá hư cái lẫy nỏ rồi sai người trình báo với Võ Hoàng. Võ Hoàng lại cất binh sang đánh. Quân kéo đến, vua An Dương Vương lại như xưa là dùng nỏ thần thì nỏ đã hư gẫy, quân lính đều tan rã. Võ Hoàng nhân đó mà đánh phá, nhà vua ngậm cái sừng tê đi xuống nước. Mặt nước cũng vì ngài mà rẽ ra.
Đất nước vì thế mà thuộc nhà Triệu.
Câu cuối cùng trong phần trích trên là lí do căn bản để Đại Việt sử lược xếp nhà Triệu là một triều đại Việt Nam, kéo dài 93 năm với các đời vua: Triệu Vũ Đế, Triệu Văn Vương, Triệu Minh Vương, Triệu Ai Vương, Triệu Vệ Dương Vương.
Cái nhìn của hiến sử Việt Nam với nhà Triệu và nước Nam Việt phải đặt trong toàn cảnh lịch sử chính trị xã hội Việt Nam cùng thời. Dưới lăng kính tiến hóa chính trị và vận động xã hội mới nêu bật được những mâu thuẫn nội tại của sử sách Việt Nam và con người Việt Nam trên cùng một dữ liệu lịch sử.
Học giả người Nhật, Yumio Sakurai, qua nghiên cứu cách định cư và nông nghiệp thời Lý đã lập luận nhà Lý là một triều đại địa phương; nhiều thế lực địa phương khác đến thế kỉ 13 mới bị nhà Trần trấn áp hoàn toàn [1] . Đây phải chăng là tàn tích của nạn “sứ quân” từ thế kỉ 10. Tuy vậy, tác giả bài này không tin rằng thế kỉ 13 mô hình nhà nước phân quyền kia đã được thay bằng công thức phong kiến tập quyền tuyệt đối. Bằng chứng nằm tại “Hịch tướng sĩ” năm 1284 của Trần Hưng Đạo. Mặc dù là “Tiết chế” thống lĩnh toàn quân, lời văn của Trần Hưng Đạo trong “Hịch tướng sĩ” mang phong thái khuyến dụ hơn là quân lệnh bắt buộc phải tuân theo. Như vậy tại đỉnh cao đoàn kết chống ngoại xâm, ở thời thịnh trị nhất của nhà Trần, dấu vết phân quyền chưa phai nhạt thì không có lẽ nào đến khi Trần mạt hình thức ấy có nhiều thay đổi.
Niên đại 1388 của Đại Việt sử lược là thời kì Trần mạt. Lúc này một nhân vật lịch sử còn nhiều tranh cãi sắp bước lên vũ đài chính trị Việt Nam là Hồ Quí Ly. Các chính sách cai trị của họ Hồ một lần nữa khẳng định quyết tâm tập quyền của ông:
- Làm tiền giấy, cải cách thuế má, thống nhất tài chính.
- Định phục phẩm quan lại, cải tổ địa giới hành chính như đổi một vài lộ làm trấn, đặt thêm quan chức ở lộ, phủ, qui ước các lộ ghi chép sổ sách và đem về kinh báo cáo mỗi cuối năm.
- Cải cách giáo dục, thi cử, đưa toán pháp vào quá trình chọn người tài v.v..
Chính Hồ Quí Ly, chứ không ai khác đã đặt nền móng cho việc nhìn nhận lại nước Nam Việt và dòng họ Triệu trong dòng chảy lịch sử Việt Nam.
2. Các quan điểm sau năm 1400
Ở Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên, dưới triều Lê Thánh Tông 1460 đến 1497), lần đầu tiên sử sách Việt Nam truy nguyên gốc tích của mình từ kỷ Hồng Bàng với Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân rồi mới đến Hùng Vương, An Dương Vương và Triệu Vũ Vương…
Lê Thánh Tông là ông vua đã rút ra được bài học nóng vội của Hồ Quí Ly, để áp dụng thành công đường lối chính trị Nho Giáo Trung Hoa vào đất nước Việt Nam. Nhu cầu “chính danh” đã đưa rất nhiều huyền thoại, cổ tích trong dân gian thành chính sử. Ngô Sĩ Liên được thay mặt trí thức Việt Nam đương thời trả lời câu hỏi “Ta là ai? Từ đâu tới?” cho dân tộc Việt Nam. Những quyển sử cũ chỉ đuợc thêm vào chứ không bớt đi hoặc tách ra, và họ Triệu được để yên cho đến khi xuất hiện Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ năm 1775:
Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: "Triệu kỷ Vũ đế". Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta. Nếu coi là đã làm vua nước Việt, mà đến ở cai trị nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nướcThục, nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để phân biệt với nội thuộc vậy.
Với lý do này, Ngô Thì Sĩ đã loại họ Triệu khỏi chính sử Việt Nam. Ông gộp năm đời Triệu Vương thành một kỷ Ngoại thuộc, tương đương với các kỷ ngoại thuộc Hán, Tùy, Đường sau đó. Thực ra lí luận của Ngô Thì Sĩ mang tính nhất thời, trong cái nhìn địa phương hãn hữu. Ông phân biệt rạch ròi “Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam”, nghĩa là Việt Nam ngày nay chẳng dính dáng gì đến cương vực bao la của Nam Việt khi xưa.
Vì không cùng quan điểm với họ Ngô nên Tự Đức vẫn cho Quốc sử quán ghi danh các vua Triệu như là tiền triều trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục (giữa Thế kỷ 19). Hơn nữa lời phê của ông sau khi nhà Hán diệt nhà Triệu là câu trả lời dứt khoát: ngày xưa bờ cõi của tổ tiên ông bao gồm nhiều quận trong Giao Chỉ bộ!
Lời phê: Xét chung từ trước đến sau, đất đai của nước Việt ta bị mất về Trung Quốc đã đến quá một nửa, tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều đại cũng nhiều người lỗi lạc hiếm có ở trên đời, mà vẫn không thể nào lấy lại được một tấc, đó là việc đáng ân hận lắm! Thế mới biết việc thu hồi đất đai đã mất, từ đời trước đã là việc khó, chứ không những ngày nay mà thôi. Thật đáng thương tiếc.
Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ thực dân năm 1945, nền sử học cộng sản non trẻ áp dụng ngay phép biện chứng duy vật lịch sử vào môn lịch sử. Tình cờ nhãn quan của Ngô Thì Sĩ rất hợp với quyết tâm xây dựng nền móng bản địa cho lịch sử Việt Nam, cộng với chủ nghĩa dân tộc dâng cao, vấn đề Nam Việt và Triệu Đà giờ đây có thể tóm gọn trong một đoạn văn của Đào Duy Anh:
Nhà Triệu không phải là quốc triều
Sách Toàn thư, sau khi nêu lên quốc thống của ta bắt đầu từ Hồng Bàng Thị, đến Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, mười tám đời Hùng Vương, rồi đến Thục An Dương Vương, thì chép luôn nhà Triệu làm một triều đại chính thống. Các sử thần thời Lê, kế tục phương pháp và quan điểm Lê Văn Hưu ở đời Trần (quan niệm lịch sử phản dân tộc) không thấy rằng Triệu Đà làm vua nước Nam Việt ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, đối với nước Âu Lạc mà nghĩ xâm lược, chỉ là một tên giặc cướp nước chứ không phải là một đế vương chính thống. Mãi đến cuối đời Lê mới thấy có một nhà sử học là Ngô Thì Sĩ, tác giả sách Việt sử tiêu án, phản đối việc cho họ Triệu tiếp nối quốc thống của An Dương Vương. Có lẽ do ảnh hưởng của ý kiến ấy cho nên sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của triều Nguyễn không chép riêng nhà Triệu làm một kỷ chính thống nữa, nhưng vẫn cứ chép cả lịch sử nhà Triệu vào phạm vi quốc sử của ta. Các nhà sử học tư sản của ta cũng chịu ảnh hưởng của quan điểm phản dân tộc ấy, cho nên Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim cũng chép kĩ càng về lịch sử nhà Triệu, và Những trang sử vẻ vang của Nguyễn Lân thì biểu dương Lữ Gia là trung thần của nhà Triệu làm vị anh hùng dân tộc đầu tiên của chúng ta. Đối với dân tộc ta thì Triệu Đà là giặc cướp nước, mà lịch sử của nhà Triệu ở nước Nam Việt không thể nằm trong phạm vi lịch sử Việt Nam [2] .
Cố giáo sư Đào Duy Anh là ông thầy uyên bác của đa số các nhà sử học có tiếng Việt Nam hiện nay, nhóm người mê tín thuyết bản địa của văn hóa và văn minh Việt Nam. Nhưng trớ trêu, những tác phẩm nghiên cứu lịch sử quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông Đào, lại khẳng định người Việt “có thể” di cư bằng thuyền đến đồng bằng sông Hồng sau khi nước Việt của Câu Tiễn bị xóa sổ thời Chiến quốc [3] ! Lời lẽ nặng nề của Đào Duy Anh ở trên, xét cho cùng mang khẩu khí chính trị nhiều hơn là tinh thần nghiên cứu trung thực, khách quan vốn luôn hiện hữu ở nhiều công trình mang tên ông.
3. Lời bình
Trong “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam” tôi đã đưa ra giả thuyết mới về ngữ nghĩa của từ Âu Lạc. Thật may mắn, khi dùng giả định Âu Lạc = Đất nước = Non nước = Xứ sở trên chủ đề Nam Việt này thì mâu thuẫn của các nhà sử học Việt Nam phần nào sáng tỏ.
Quả tình, thuật ngữ Âu Lạc nếu không phải là tên của vương quốc do An Dương Vương lập ra, thì nó sẽ thống nhất một vùng đất rộng lớn là Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc bộ Việt Nam thành một lãnh thổ khá tương đồng về văn hóa. Như vậy, nếu nhìn nhận cương giới của người dân Việt trước thời Triệu Đà gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Bộ Việt Nam thì việc Nhà Triệu tiếp nối An Dương Vương như một triều đại chính thống là hợp lí. Bản thân An Dương Vương cũng đã “cướp nước” của các vua Hùng kia mà! Nếu đã loại Triệu Đà, nên chăng loại luôn An Dương Vương, cùng xếp họ vào kỷ nội thuộc.
Rõ ràng cái gọi là “quan niệm lịch sử phản dân tộc” của cố Giáo sư Đào Duy Anh rất khiên cưỡng và khó đứng vững.
Nước Nam Việt cùng năm đời Việt Vương là một hiện hữu lịch sử không thể phủ nhận và có liên quan hữu cơ với lịch sử Việt Nam. Tài liệu xưa nhất đã nhắc đến nó và gần như cùng thời với nó là Sử ký của Tư Mã Thiên. Tuy nhiên do đặc điểm quá cô đặc, gãy gọn của cổ văn Trung Hoa mà hiện hữu ấy không ngừng được tranh cãi, mổ xẻ, suy luận theo những chiều hướng nhiều khi mâu thuẫn đến hoàn toàn trái ngược.
Về phía Việt Nam, nước Nam Việt của Triệu Đà trong những trang sách còn phải ngụp lặn giữa quá trình tiến hóa nhận thức, xã hội và chính trị không ngừng của con người Việt Nam hàng ngàn năm qua. Giả sử nếu mai này thuyết các vua Hùng từng xuất phát từ hồ Động Đình rồi di cư xuống đồng bằng sông Hồng qua Quảng Tây được chấp nhận rộng rãi, thì việc tái chấp nhận Triệu Đà như một vương triều phong kiến chính thống lại sẽ được đặt ra.
Nói cho cùng, càng nhiều suy biện, càng nhiều giả thuyết, càng nhiều nỗ lực cày xới trên những bình nguyên quá khứ mang tên lịch sử, chẳng qua cũng là việc phải làm vì sự phát triển sử học mà thôi. Không bao giờ nên để các trang sử bất biến. Tĩnh tức là tử. Không chỉ có ngày hôm qua là đối tượng nghiên cứu của lịch sử, mà bản thân khoa học lịch sử cũng rất cần phân luận, bởi nó là gương mặt, là tư duy, là trình độ phát triển, là thước đo vận động (tiến hoặc lùi) của chính thời đại dung dưỡng nó.
Thung lũng Đa Thiện, Đà Lạt 12.2005
© 2005 talawas
Friday, December 16, 2005
Văn tế Nguyễn Thái Học
Văn tế Nguyễn Thái Học
Sau khi ông mất, sinh viên học sinh Huế tổ chức lễ truy điệu, và đọc bài Văn tế các Tiên-liệt Việt Nam Quốc Dân Đảng sau đây do cụ Phan Bội Châu trước tác.
- Gươm ba thước chọc trời kinh, chớp cháy, nầy Lâm Thao, nầy Yên Bái, nầy Vĩnh Bảo, khí phục thù hơi thở một tầng mây!
- Súng liên thanh vang đất thụt, non reo, nào chủ đồn, nào xếp cẩm, nào quan binh, ma hút máu người bay theo ngọn gió.
- Trách nông nỗi trời còn xoay tít, trước cờ binh sao quay gió cản ngăn;
- Tiếc sự cơ ai quá lờ mờ, dưới trướng giặc bấy nhiêu tay len lỏi.
- Ma cường quyền đắc thế sinh hùng uy,
- Thần công lý bó tay nghe tử tội.
- Ôi thôi, mù thảm mây sầu,
- Gió cuồng mưa vội;
- Cửa quỷ thênh thang!
- Đường trời vòi vọi!
- Nhân dân chí sĩ, sát thân vào luật dã man;
- Nữ kiệt anh hùng, thất thế đang hồi đen rủi.[9]
- Trường tuyên án chị chị anh anh cười tủm tỉm, tức nỗi xuất sư vị tiệp,[10]
-
- vai bể non gánh nặng hãy trìu trìu,
- Đoạn đầu đài sau sau trước bước ung dung, gớm gan thị tử như quy,[11]
-
- mặc cây cỏ máu tươi thêm chói chói.
- Tuy kim cổ hữu hình thì hữu hoại, sóng Bạch Đằng, mây Tam Đảo, hơi sầu cuộn cuộn bóng rồng thiêng đành ông HỌC xa xuôi,
- Nhưng sơn hà còn phách ắt còn linh, voi nàng Triệu, ngựa nàng Trưng, hình hạc gió, hãy cô GIANG theo đuổi.
- Đoàn trẻ chúng tôi nay:
- Tiếc nước còn đau,
- Nghĩ mình càng tủi!
- Nghĩa lớn khôn quên,
- Đường xa dặm mỏi!
- Giây nô lệ quyết rày mai cắt đứt, anh linh thời ủng hộ, mở rộng đường công nhẩy, bằng bay;
- Bể lao lung đua thế giới vẫy vùng, nhân đạo muốn hoàn toàn, phải gắng sức rồng dành, cọp chọi,
- Đông đủ người năm bộ lớn, đốt hương nồng, pha máu nóng, hồn thiên thu như sống như còn,
- Ước ao trong bấy nhiêu niên, rung chông bạc, múa cờ vàng, tiếng vạn tuế càng hô càng trỗi.
- Tình khôn xiết nói,
- Hồn xin chứng cho,
- Thượng hưởng!
— Sào nam Phan Bội Châu, (1932)
Wednesday, December 14, 2005
Wednesday, November 30, 2005
Dõi tìm tông tích người xưa
Lời Giới Thiệu
Khoa học chính xác bao giờ cũng cần phải có tư liệu để nghiên cứu sâu và phát triển rộng những nhận thức về xã hội và nhân văn. Tìm kiếm, bổ sung, hiệu đính tư liệu là công việc hàng đầu của tất cả những nhà khoa học. Tư liệu khoa học giúp cho nhiều người, nhiều thế hệ nhà nghiên cứu khoa học, nhiều ngành khoa học phát triển. Song, việc làm tư liệu không phải là công việc đơn giản và ai cũng có thể làm được. Nhà khoa học đi vào con đường tìm kiếm tư liệu mới cũng lắm cực nhọc, cay đắng, tốn kém tiền của và lao lực bản thân, nhưng lại âm thầm ít ai biết đến, ít người thưởng thức và chia xẻ niềm tôn vinh nghề nghiệp. Chỉ có con người say mê cần mẫn quên mình và không nóng vội về công danh mới làm nên được một sự nghiệp tư liệu học.
Công việc nghiên cứu về gia phả học và nhà gia phả học Việt Nam, cụ Dã Lan Nguyễn Đức Dụ đã dành một thời gian gần nữa thế kỷ để theo đuổi một công việc tư liệu cho khoa học: đó là sưu tầm, biên soạn gia phả các dòng họ ở Việt Nam. Đây là một công việc mà cụ Á Nam Trần Tuấn Khải gọi là "vấn tổ, tầm tông" cho "tiền đồ dân tộc” [1] và nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê còn cho rằng "Những nhà viết sử Việt Nam sẽ nhờ ông mà có được nhiều tài liệu", "công việc trở về nguồn đó thật độc đáo và đáng quý" [2].Cố giáo sư Thái Ninh nhận xét "Sau nhiều năm say mê nghiên cứu, ông Dã Lan Nguyễn Đức Dụ đã thực sự trở thành chuyên gia số một ở nước ta về gia phả học" [3].
Thật vậy, cho đến nay, có lẽ cả nước cũng mới có một cụ Dã Lan Nguyễn Đức Dụ đã dành hàng chục năm trời cho sự nghiệp gia phả học Việt Nam. Trong tương lai phát triển của sử học, dân tộc học, xã hội học và văn hóa dân gian Việt Nam, gia phả học sẽ có một vai trò quan trọng và xứng đáng hơn để góp phần làm phong phú và chính xác các nhận thức và tư duy khoa học. Các bạn trẻ đang làm luận án thạc sĩ. tiến sĩ khoa học về khoa học xã hội và nhân văn hãy để tâm và kế thừa một công việc đầy ý nghĩa này. Các nhà nghiên cứu đang công tác trên một số ngành khoa học xã hội và nhân văn cũng cấn chú ý đến những tư liệu về gia phả học Việt Nam và góp phần thúc đẩy ngành khoa học này ngày càng phát triển cho xứng đáng với tầm quan trọng vốn có của nó.
Là người thuộc thế hệ ít tuổi, ít hiểu biết về gia phả học, tôi vinh dự được viết những dòng này để giới thiệu với bạn đọc về nhà gia phả học Việt Nam Dã Lan Nguyễn Đức Dụ và công trình nghiên cứu của cụ với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ và tôn kính. Gia phả học Việt Nam nhất định sẽ có một tiền đồ sáng sủa trong tương lai.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 11 năm 1997 .
Viện trưởng Viện khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh
(thuộc trung tâm KHXH và NVQG)
Gs. Mạc Đường
Chút cảm nghĩ về ngành gia phả
LI TANA
LI TANA (tên chữ là Lý Bảo Thạch) là tác giả cuốn Luận án Tiến sĩ về Lịch sử Đàng Trong thời Chúa Nguyễn. Hiện dạy Khoa lich sử và chính tri trường Đại Học Quốc Gia Úc (UNIVERSITY OF WOLTONGONG AUSTRALLA)
Thật thú vị khi nghiệm bút để viết cảm nghĩ cho quyển sách "Dõi Tìm Tông Tích Người Xưa" quyển trứ tác thứ ba vế gia phả Việt Nam của bác Dã Lan Nguyễn Đức Dụ tác giả.
Điều kỳ thú là, gia phả đã có lâu đời ở miền Bắc Việt Nam, nhưng môn gia phả học ở Việt Nam lại nhờ bác Dã Lan là một người sống lâu năm ở miền Nam một vùng đất mới hình thành ba trăm năm nay mới được sáng lập trên đất nước miền Nam. Nói cách khác, là gốc gia phả tuy ở miền Bắc mà quả gia phả học lại kết tinh trên đất phì nhiêu của miền Nam. Cuộc Nam tiến truyền thống của dân tộc Việt Nam này làm cho tôi là một cựu sinh viên nghiên cứu về lịch sử Nam tiến của đất nước này nghĩ đến rất nhiều.
Quả thật tác phẩm của bác Dã Lan có đặc điểm của cả hai miền: Nghiên cứu cẩn thận, bút pháp có vẻ sử gia nhưng lại diễn tả với sự hiểu biết sâu xa về văn học của bác, cho nên gia phả mà bác Dã Lan biên soạn có một phong cách riêng, khác với những gia phả cổ truyền Việt Nam. Nói đúng hơn, bác Dã Lan Nguyễn Đức Dụ đã không những kế thừa một truyền thống lâu đời về gia phả đã tồn tại ở Việt Nam hơn nghìn năm, mà còn chỉnh lý và tổng kết lại kiến thức về môn học này, so sánh với những phương pháp nghiên cứu của Tây phương, lý luận hóa và phong phú thêm phần di sản quý báu của dân tộc Việt Nam này. Điều mà tôi thích nhất là khi hành văn bác Dã Lan lại không phô trương về kiến thức của mình, mà viết với một phong cách trong sáng, thong thả và dễ gần.
Là một người phụ nữ tôi vui mừng khi đọc những quan điểm của báu Dã Lan về gia phả học: gia phả ngày nay không nên ép buộc gò bó mãi trong lề lối cũ, mà trái lại, gia phả ngày nay phải được xây dựng theo một quan niệm mới... nên thêm ngành ngoại, tức là thêm cả con gái nữa chẳng hạn.
Là một học giả thuộc thế hệ trẻ, tôi xúc động khi đọc thu gom các dòng tộc mà bác Dã Lan viết. Tôi bùi ngùi khi tưởng tượng lại trong bao nhiêu năm gian nan bác chịu sống nghèo đi một xe đạp cũ cặm cụi mải mê đi tìm tông tích người xưa.
Bác Dã Lan đã dành cả cuộc đời mình để nghiên cứu gia phả học và tìm được một lối biên soạn gia phả thật giản dị để dạy bảo thế hệ con cháu của mình như bác đã làm.
Tôi mừng cho nước Việt Nam đã có một học giả như bác Dã Lan.
Tôi cũng mừng cho mình đã quen và thân với một người Việt Nam có nhân cách chân thành, cương trực, phóng khoáng, và đầy đức hy sinh như bác Dã Lan Nguyễn Đức Dụ.
9/12/1995
[1] Á Nam Trần Tuấn Khởi ("Mấy lời giới thiệu" - Đông Kỷ Dậu. 1969).
[2] Nguyễn Hiến Lê (Giới thiệu "Lược khảo phổ trạng các nhà văn". 07/10/74 - sẽ xuất bản).
[3] Thái Ninh (Thông Tấn Xã Việt Nam - Thứ Bảy 28/1 1/92)
(Còn tiếp)
posted by phominhtu at 12:24 AM
1 Comments: